Một số vấn đề về biển và phát triển bền vững kinh tế biển
1. Mở đầu
Biển và các vùng ven biển là những bộ phận không thể tách rời của hệ sinh thái toàn cầu và đóng vai trò chủ chốt đảm bảo tính chất bền vững của quá trình phát triển. Trên thực tế, biển đang bao phủ hơn hai phần ba diện tích bề mặt và chứa trong đó 97% tổng lượng nước của trái đất. Biển được nhìn nhận là cái nôi của sự sống và là cấu phần hết sức quan trọng để tiếp tục duy trì sự sống của loài người. Trong mối liên hệ với quá trình phát triển kinh tế - xã hội hiện nay của hầu hết các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển, đã có sự thừa nhận rộng khắp rằng, biển đóng vai trò quan trọng trong xóa nghèo đói và tạo ra môi trường sống, cũng như công việc có thu nhập bền vững cho con người. Trong bối cảnh mới của thế giới với nhiều biến động lớn cả về môi trường tự nhiên và xã hội, thì mối liên hệ giữa biển, việc thực thi các chiến lược, chính sách về biển của các quốc gia để đảm bảo phát triển bền vững cần được nhìn nhận một cách thấu đáo hơn. Bài viết trình bày nhận thức chung về biển trên thế giới; phân tích làm rõ sự phát triển bền vững kinh tế biển và quản lý biển; từ đó nêu lên vấn đề phát triển kinh tế biển ở Việt Nam.
2. Nhận thức chung về biển trên thế giới
Tầm quan trọng của biển đối với sự sống và đối với phát triển kinh tế - xã hội của hầu hết các quốc gia trên thế giới đã được thừa nhận rộng rãi. Thế nhưng những hiểu biết của con người về biển vẫn còn rất hạn chế, cho dù những tiến triển nhanh chóng của khoa học, công nghệ thời gian gần đây đã cung cấp nhiều công cụ, phương tiện hiện đại hơn để nghiên cứu, tìm hiểu về biển. Ngoài ra, cho dù con người ngày càng có nhiều khám phá mới, có nhiều thông tin hơn về biển, môi trường biển, nhưng những kiến thức mới này vẫn rất ít được phổ biến đến với công chúng và chưa được quan tâm đúng mức. Hệ quả là, mối liên hệ đặc biệt giữa biển và vấn đề phát triển bền vững, nhất là ở các nước đang phát triển ven biển, ở chừng mực nhất định vẫn chưa được chú ý đánh giá cho thật đầy đủ.
Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất lần đầu tiên về Môi trường và Phát triển2 do Liên Hợp Quốc tổ chức tại Rio de Janeiro (Brazil) năm 1992 đã thừa nhận rằng, sự thiếu hụt thông tin về biến động trong các hệ thống của trái đất (bao gồm biển đối khí hậu, thay đổi về môi trường, về thổ nhưỡng, v.v.) đang gây ra những hậu quả đáng quan ngại tới sự phát triển của các quốc gia. Những năm sau đó, mọi việc trở nên có tiến triển tích cực và trong các vấn đề toàn cầu nói chung, vấn đề biển và môi trường biển bắt đầu được quan tâm, chính phủ nhiều quốc gia trên thế giới đưa ra các chương trình hành động để đảm bảo phát triển bền vững. Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất lần thứ hai tổ chức năm 2012 (còn gọi là Hội nghị Rio+20)3 đã cho thấy những tiến triển tích cực hơn nữa. Một trong những kết quả quan trọng của hội nghị này là thỏa thuận về chống biến đổi khí hậu và trong đó, vấn đề môi trường biển được nhấn mạnh. Văn bản của Hội nghị ghi rõ: các quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc cam kết bảo vệ và duy trì hệ sinh thái biển và đại dương lành mạnh, có thể tái tạo, duy trì đa dạng sinh thái và đảm bảo sử dụng, bảo vệ một cách bền vững cho các thế hệ hiện tại và tương lai4.
Bảng 1: Một vài số liệu về biển và tầm quan trọng của biển [9]
| Chỉ số |
- Diện tích bề mặt trái đất được biển bao phủ | 71% |
- Tỷ trọng giao dịch thương mại toàn cầu được thực hiện qua đường biển | 90% |
- Tài nguyên thiên nhiên toàn cầu được lưu giữ trong lòng đại dương | 80% |
- Nhiệt năng làm trái đất nóng lên được hấp thụ và điều hòa qua biển | 90% |
- Hệ sinh thái biển toàn cầu đang bị suy thoái nghiêm trọng và khai thác thiếu bền vững | 60% |
- Dân số thế giới sinh sống ở các vùng ven biển | 3 tỷ người |
Kể từ Hội nghị Rio+20 tổ chức năm 2012 đến nay, nhận thức chung của các quốc gia về vai trò của biển tiếp cận từ góc độ tự nhiên cũng như xã hội đều đã cải thiện đáng kể. Chính sách của các nước, nhất là các nước đang phát triển khu vực Châu Á - Thái Bình Dương đã ghi nhận rằng, nếu không giám sát một cách lâu dài với tầm nhìn dài hạn đối với các hệ thống sinh thái toàn cầu, thì các nhà lập chính sách sẽ không thể có được các thông tin hữu ích phù hợp để từ đó đưa ra các quyết sách đúng đắn phục vụ phát triển bền vững. Các nhà lãnh đạo thế giới đã thừa nhận sự cần thiết phải khởi động và điều phối, duy trì một mạng lưới quan trắc toàn cầu về các vấn đề môi trường và phát triển bền vững. Trong mạng lưới này, Hệ thống quan trắc đại dương toàn cầu (GOOS)5 là một cấu phần không thể thiếu nhằm tạo thuận lợi cho sự hợp tác giữa các quốc gia có biển đề giải quyết các vấn đề toàn cầu. Những diễn biến mới đây cho thấy, các quốc gia đã có sự nhất trí cao hơn nữa khi chia sẻ nhận thức chung về biển và các mục tiêu phát triển. Văn bản có tên gọi “Tương lai mà chúng ta mong muốn” của Hội nghị Rio+20 xác lập yêu cầu về việc thành lập một Tổcông tác mở (Open Working Group) để phát triển một tập hợp các mục tiêu phát triển bền vững mà Đại hội đồng Liên Hợp Quốc cần xem xét, thông qua, với các hành động cụ thể, trong đó đã đưa ra các khái niệm cơ bản, sứ mệnh cần thực hiện để các Mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) phải đồng bộ và gắn kết với Chương trình nghị sự về phát triển sau năm 2015 của Liên Hợp Quốc. Đề xuất của Tổ công tác về các mục tiêu phát triển bền vững bao gồm mục tiêu phát triển bền vững số 14 (SDG 14) yêu cầu phải “bảo tồn và sử dụng một cách bền vững các nguồn lực của biển và đại dương để phát triển bền vững” [10]. Trong mục tiêu số 14 này, các vấn đề liên quan tới biển và đại dương được cụ thể hóa trong 10 mục tiêu nhỏ, gắn kết với các Mục tiêu phát triển bền vững khác thuộc Chương trình Nghị sự 2030 về Phát triển bền vững. Đây là kết quả đáng khích lệ có được từ sau Hội nghị thượng đỉnh của Liên Hợp Quốc tổ chức năm 2015 để thông qua Chương trình nghị sự về phát triển sau năm 2015.
Như vậy, nhận thức của các quốc gia trên thế giới về biển và yêu cầu phải khai thác, sử dụng các nguồn lực từ biển một cách bền vững đã có nhiều chuyển biến tích cực trong những năm gần đây. Cùng với sự phát triển của xã hội loài người và tăng trưởng kinh tế của các quốc gia, yêu cầu phải tiếp cận tới biển, các nguồn lực của biển và các hoạt động kinh tế, xã hội khác đã tạo ra sức ép rất lớn tới các hệ thống sinh thái biển - từ đánh bắt cá quá mức đến khai thác tài nguyên biển thiếu bền vững, hủy hoại các vùng bờ biển và vấn đề ô nhiễm môi trường, v.v.. Thực trạng này đòi hỏi tiếp tục phải có hợp tác quốc tế hiệu quả hơn nữa để bảo vệ môi trường biển và thúc đẩy việc sử dụng các nguồn lực biển một cách có trách nhiệm theo hướng phục vụ cho hiện tại, nhưng đồng thời cũng tính tới yêu cầu của các thế hệ tương lai. Cho đến nay, khuôn khổ hợp tác của Liên Hợp Quốc vẫn được nhìn nhận như thể chế đa phương quan trọng nhất để điều phối hoạt động quản lý biển và việc các quốc gia đã thống nhất được với nhau về một Mục tiêu phát triển bền vững dành riêng cho biển và bờ biển đã là minh chứng tốt cho thấy những chuyển biến thực sự từ nhận thức tới hành động thực tế.
3. Phát triển bền vững kinh tế biển và quản lý biển
Kể từ sau Hội nghị Rio+20, khi Liên Hợp Quốc và các quốc gia thành viên có những động thái mạnh mẽ hơn, đưa ra các cam kết rõ ràng hơn về các mục tiêu phát triển bền vững, trong đó có mục tiêu liên quan tới biển thì vấn đề phát triển bền vững biển đã được nhìn nhận một cách nghiêm túc. Các thách thức lớn mang tính toàn cầu trong lĩnh vực này (như vấn đề ô nhiễm môi trường biển, suy thoái hệ sinh thái biển, an ninh hàng hải, v.v.) đã được đặt vấn đề một cách mạnh mẽ hơn và đòi hỏi cộng đồng quốc tế có hành động quyết liệt hơn để phối hợp giải quyết. Thực tế thì các mục tiêu phát triển của Liên Hợp Quốc về bảo tồn và sử dụng bền vững biển, đại dương cũng đã từng bước được cụ thể hóa trong chiến lược biển của nhiều quốc gia. Kinh tế biển và quản lý biển là các nội hàm quan trọng để các quốc gia thực thi chính sách phát triển bền vững.
Về kinh tế biển, thời gian gần đây, trên thế giới thường được nhắc tới bằng thuật ngữ nền “kinh tế xanh” (blue economy) trong tương quan với “tăng trưởng xanh dương” (green growth), với hàm ý nhấn mạnh tới tính bền vững và bảo vệ môi trường. Tuy đã được đề cập ở nhiều góc độ khác nhau, nhưng đến nay vẫn chưa có định nghĩa thống nhất thế nào là kinh tế biển. Dù vậy, một số định nghĩa có giá trị tham khảo tốt có thể được kể tới bao gồm định nghĩa của Hội nghị Liên Hợp Quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD)6 cho rằng, kinh tế biển là tập hợp có giá trị bổ sung của một dạng thức tiến hóa và phát triển với trọng tâm là phát triển kinh tế bao trùm rộng hơn, bền vững hơn và xanh hơn. Kinh tế biển hướng tới mở rộng giới hạn kinh tế của các quốc gia ven biển vượt ra ngoài lãnh thổ trên đất liền. Kinh tế biển có hàm ý là một nền kinh tế bền vững dựa vào môi trường biển cùng hệ sinh thái biển liên quan tới đa dạng sinh học, các nguồn gen của sinh vật biển và các nguồn tài nguyên biển. Một khái niệm khác của Ủy ban Châu Âu (EC)7 cho rằng, kinh tế biển bao gồm các hoạt động kinh tế theo ngành và liên ngành liên quan tới biển, đại dương và các đường bờ biển. Kinh tế biển còn bao gồm các hoạt động hỗ trợ trực tiếp và gián tiếp cần thiết đối với sự vận hành của các ngành nghề này được bố trí ở bất kỳ đâu, có thể ngay ở các quốc gia không có biển.
Trên thực tế, đã và đang có nhiều quan điểm khác nhau về kinh tế biển, nhưng với bối cảnh phát triển mới hiện nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có sự đồng thuận về một quan điểm, một tầm nhìn chung; đó là phải chú trọng hơn tới phát triển kinh tế (biển) xanh. Khái niệm kinh tế biển xanh về bản chất là trùng hợp với kinh tế biển nhưng nhấn mạnh hơn tới trụ cột môi trường, được các quốc gia công nhận là giải pháp phát triển bền vững biển và từng bước trở thành yêu cầu bắt buộc trong các chiến lược, chính sách phát triển. Kinh tế biển xanh được hiểu là “sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên biển, đại dương nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế, cải thiện sinh kế, đồng thời bảo tồn sức khỏe của các hệ sinh thái biển, đại dương” [4].
Kinh tế biển đã thực sự trở thành nội dung quan trọng hàng đầu trong chiến lược biển của các quốc gia. Thống kê sơ bộ cho thấy, giá trị của kinh tế biển trên toàn thế giới được ước tính lên tới 6 nghìn tỷ USD mỗi năm và hơn 3 tỷ người đang sinh sống ven biển, coi biển và vùng ven biển là môi trường sống quan trọng hàng đầu của mình. Các ngành kinh tế biển (xem bảng 2), trong đó các ngành mới nổi là những ngành kinh tế biển, tuy mới hình thành trong thời gian chưa lâu, nhưng đang có tốc độ phát triển rất nhanh dựa trên cơ sở ứng dụng các thành tựu công nghệ mới nhất của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đây cũng là những ngành nghề đáp ứng tốt hơn yêu cầu về phát triển bền vững.
Bảng 2: Các ngành kinh tế biển truyền thống và mới nổi [5]
Các ngành truyền thống | Các ngành kinh tế biển mới nổi |
- Đánh bắt cá - Chế biến hải sản - Cảng biển - Đóng tàu và sửa chữa tàu biển - Khai thác dầu khí ngoài biển - Xây dựng và chế tạo ngoài biển - Du lịch biển và bờ biển - Nghiên cứu và Triển khai và giáo dục hàng hải - Nạo vét luồng lạch biển | - Nuôi trồng thủy sản trên biển - Khai thác dầu và khí vùng biểu sâu và rất sâu - Năng lượng gió ngoài biển - Năng lượng tái tạo từ biển - Khai thác mỏ dưới đáy biển - An toàn và giám sát hàng hải - Công nghệ sinh học biển - Dịch vụ và sản phẩm biển công nghệ cao - Một số ngành nghề khác |
Trong số các ngành nghề gắn với kinh tế biển, thì đánh bắt cá vẫn là hoạt động có truyền thống lâu đời và phổ biến nhất. báo cáo của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc (FAO) [3] ước tính rằng hơn 60 triệu người trên thế giới đang trực tiếp làm việc trong lĩnh vực đánh bắt cá và nuôi trồng hải sản, trong đó phần lớn làm việc trong các cơ sở quy mô nhỏ tại các nước đang phát triển. Số liệu của FAO cũng cho biết trong năm 2016, tổng sản lượng cá biển đánh bắt được trên thế giới lên tới 171 triệu tấn với giá trị bán trực tiếp khoảng 362 tỷ USD và đem lại giá trị kim ngạch xuất khẩu khoảng 143 tỷ USD. Ngoài các lĩnh vực kinh tế biển truyền thống như đánh bắt cá thì lĩnh vực mới nổi là nuôi trồng hải sản trên biển cũng tăng trưởng nhanh và nhờ đó đảm bảo tính bền vững, phần nào hạn chế tình trạng khai thác, đánh bắt quá mức đang diễn ra khá phổ biến, nhất là ở các nước đang phát triển. Ngoài các ngành nghề truyền thống thì định hướng phát triển của các quốc gia hiện nay đã hướng tới các lĩnh vực kinh tế biển mới như năng lượng tái tạo, dịch vụ biển công nghệ cao hoặc du lịch biển.
Về quản lý biển, để có được nền kinh tế biển xanh bền vững cũng được đặt ra như một yêu cầu quan trọng hàng đầu. Nhiệm vụ quản lý biển cần được thực hiện bởi các thể chế quản lý phù hợp. Tất cả các quốc gia có biển đều có các cơ quan quản lý biển để thực hiện các nhiệm vụ khác nhau liên quan tới biển. Dù vậy, vấn đề điều phối trên phạm vi toàn cầu hoặc ở cấp độ khu vực là rất hạn chế. Trước thực trạng này, Liên Hợp Quốc thông qua các cơ chế đa phương cũng đã đề xuất một khuôn khổ chung cho công tác quản lý biển của các quốc gia với các yêu cầu chủ yếu bao gồm: (1) lợi ích về kinh tế và xã hội cho các thế hệ hiện tại và tương lai, đóng góp cho an ninh lương thực, xóa nghèo, bảo đảm sinh kế, thu nhập, việc làm, sức khỏe và ổn định chính trị; (2) phục hồi, bảo vệ và duy trì đa dạng sinh học biển, khả năng tái tạo nguồn lợi biển, các chức năng cơ bản của hệ sinh thái cùng các giá trị sẵn có của biển; (3) sử dụng các công nghệ sạch, phát triển năng lượng tái tạo để đảm bảo sự ổn định kinh tế và xã hội cùng việc khai thác, sử dụng các nguồn lợi từ biển trong giới hạn cho phép; (4) quản lý biển bằng các thể chế công với sự tham gia đầy đủ của khối tư nhân nhằm đảm bảo tính bao trùm, thông tin đầy đủ, minh bạch và có trách nhiệm giải trình, tiếp cận đa ngành, liên ngành với tầm nhìn dài hạn.
Thực tế cho thấy, biển và đại dương trên thế giới đã ít được các nhà lập chính sách chú ý tới trong một thời gian dài. Các mục tiêu thiên niên kỷ (MDG) mà Liên Hợp Quốc đặt ra trong giai đoạn trước đây hầu như không nhắc tới vấn đề biển và phát triển bền vững. Chỉ cho đến Hội nghị Rio+20 khi 17 mục tiêu SDG được đề ra, thì vấn đề quản lý biển mới bắt đầu được quan tâm sâu sát hơn. Quản lý biển hiệu quả đòi hỏi phải có những khuôn khổ quy định đa phương và ở cấp độ vùng, cấp độ ngành hoặc liên ngành. Với nhìn nhận như vậy, các tổ chức quản lý biển đã được các quốc gia có biển thành lập mới hoặc quan tâm hơn để kiện toàn, nâng cao năng lực hoạt động. Ghi nhận trong báo cáo gần đây của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO) [6] cho thấy, hầu hết các quốc gia ven biển đã đẩy mạnh hợp tác quốc tế và chú trọng hơn tới chức năng điều phối liên ngành trong công tác quản lý biển. Hơn nữa, cũng đã có ghi nhận về sự thay đổi đáng kể trong quan điểm, cách tiếp cận về quản lý biển với tư cách một đối tượng hết sức đặc biệt, mà ở đó có nhiều vấn đề mà một quốc gia riêng lẻ chưa thể giải quyết được. Năm 2017, khi Hội nghị Đại dương của Liên Hợp Quốc8 được triệu tập với mục tiêu kêu gọi hành động của các quốc gia để bảo tồn và sử dụng bền vững các nguồn lực từ biển và đại dương, thì yêu cầu quản lý biển một cách hiệu quả tiếp tục được đặt ra đối với tất cả các quốc gia. Kết quả của Hội nghị Đại dương 2017 khẳng định rằng, việc có được thể chế quản lý biển mạnh hơn, bao quát nhiều lĩnh vực hơn sẽ góp phần lấp đầy khoảng trống hiện hữu trong hoạt động của các thể chế quốc gia và quốc tế. Điều này cũng tạo khuôn khổ cho việc thực hiện hiệu quả hơn các thỏa thuận khu vực và toàn cầu về biển.
4. Phát triển kinh tế biển ở Việt Nam
Với bối cảnh chung của thế giới và khu vực khi nhận thức về biển, tầm quan trọng của biển và kinh tế biển đang ngày càng gia tăng và định hình rõ hơn, thì vấn đề kinh tế biển của Việt Nam cũng đã nhận được sự quan tâm đặc biệt của các cơ quan Đảng và Nhà nước. Cần phải nhìn nhận rằng, Việt Nam là một quốc gia biển với hàng nghìn năm lịch sử phát triển gắn với biển. Biển Đông và tầm quan trọng của biển đảo đã ăn sâu vào tâm thức của đại đa số người Việt Nam từ rất lâu. Số liệu của Tổng cục Thống kê cho biết, Việt Nam có diện tích đất liền khoảng 332.000 km2, chiều dài bờ biển lên tới 3.260 km, như vậy là cứ mỗi 100km2 diện tích lãnh thổ thì Việt Nam có gần 1km chiều dài bờ biển. Đây là chỉ số thuộc loại cao hàng đầu của thế giới, góp phần khẳng định rằng Việt Nam thực sự là quốc gia biển và có nhiều tiềm năng, lợi thế từ biển.
Trong những năm gần đây, nhận thức được tầm quan trọng đặc biệt của biển đối với đất nước, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã đưa ra nhiều chiến lược, chính sách, kế hoạch phát triển. Ngày 9/2/2007, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã thông qua Nghị quyết 09-NQ/TW về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 với mục tiêu quan trọng nhất là phấn đấu đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, đảm bảo vững chắc quyền chủ quyền quốc gia trên biển, đảo, góp phần quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vào thời điểm đó, Việt Nam là một trong số ít các quốc gia trong khu vực sớm có chiến lược biển. Khoảng 10 năm tiếp theo, các nội dung lớn trong Chiến lược biển Việt Nam đã từng bước được hiện thực hóa với các tiến triển tương đối đồng bộ xét từ góc độ đảm bảo an toàn, an ninh trên biển để phát triển bền vững dựa vào biển, phát huy thế mạnh của một quốc gia có diện tích biển lớn gấp khoảng 3 lần diện tích đất liền. Ngay trong lĩnh vực kinh tế biển, một trong những biện pháp rất quyết liệt được đề ra là việc ban hành và thực hiện Nghị định 67/2014/NĐ-CP ngày 7/7/2014 của Chính phủ về một số chính sách phát triển thủy sản. Nghị định đã quy định về nhiều biện pháp hỗ trợ về đầu tư, tín dụng, bảo hiểm, chính sách ưu đãi thuế và một số chính sách khác nhằm phát triển thủy sản với trọng tâm là đầu tư cho các đội tàu được đóng mới, nâng cấp phục vụ khai thác hải sản, đánh bắt xa bờ. Trong các lĩnh vực khác, như phát triển các khu kinh tế ven biển, đô thị biển, du lịch biển, v.v., cũng đã có nhiều chính sách lớn được thực hiện, mà điển hình là Quyết định số 351/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 29/3/2018 phê duyệt Chương trình mục tiêu đầu tư hạ tầng khu kinh tế ven biển, khu kinh tế cửa khẩu, khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu công nghệ cao, khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao giai đoạn 2016 - 2020.
Sau hơn 10 năm thực hiện Nghị quyết 09, Hội nghị Trung ương 8 khóa XII của Đảng (10/2018) đã tổng kết, đánh giá toàn diện về việc thực hiện Chiến lược biển và công bố Nghị quyết mới về biển có tên gọi “Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”. Đây là chủ trương lớn, thể hiện tầm nhìn dài hạn của Việt Nam trong việc khai thác hợp lý các nguồn lực từ biển để phục vụ phát triển nhanh và bền vững đất nước. Nhiều quan điểm và cách đặt vấn đề mới được nêu ra trong chiến lược của Việt Nam, đặc biệt là cách nhìn nhận tổng thể và dài hạn về biển, phát triển kinh tế biển phải được nhìn nhận trong không gian 3 chiều: mặt biển, đáy biển, không gian trên biển. Cần phải vươn xa ra tới đại dương, nhưng đồng thời cũng cần phải đặc biệt chú trọng tới quản lý bờ biển vì xét đến cùng, mọi hoạt động vươn ra biển đều xuất phát từ bờ biển và bờ biển Việt Nam cần được sử dụng để tạo thuận lợi nhất cho chính sách hướng biển.
Đánh giá về thực trạng kinh tế biển thời gian qua cho thấy, Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Cho dù bối cảnh chung của thế giới và khu vực có nhiều biến động khó lường, nhưng kinh tế biển Việt Nam vẫn tiến triển tốt. Báo cáo của Tổng cục Thống kê cho biết, giai đoạn 2007 - 2017, đóng góp của 28 tỉnh, thành phố ven biển trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) luôn đạt trên 60%, trong đó đặc biệt nổi bật là vai trò của các khu kinh tế, khu công nghiệp, các cơ sở công nghiệp quan trọng ven biển. Trong khuôn khổ của chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển, vấn đề kinh tế thuần biển cũng được xem xét, đánh giá kỹ hơn. Kinh tế thuần biển, bao gồm các ngành gắn trực tiếp với biển như khai thác và chế biến dầu khí trên biển, hàng hải, nuôi trồng và khai thác hải sản, du lịch biển và kinh tế đảo. Các ngành kinh tế thuần biển luôn có đóng góp lớn vào GDP trong suốt hơn 10 năm qua với ước tính đạt khoảng 10% mỗi năm.
Số liệu trong biểu đồ cho thấy, có những chuyển biến đáng chú ý trong kinh tế biển Việt Nam giai đoạn 2010 - 2016, theo đó tỷ lệ đóng góp vào GDP của các vùng biển phía Bắc và biển miền Trung có xu hướng tăng nhẹ. Ở chiều ngược lại, kinh tế biển vùng Đông Nam Bộ lại giảm, cho dù đây được coi là đầu tàu phát triển kinh tế của cả nước. Vùng này thực tế chỉ có hai tỉnh, thành là Bà Rịa - Vũng Tàu và Tp. Hồ Chí Minh đóng góp GDP luôn ở mức cao nhất cả nước. Dù vậy, số liệu vẫn chỉ mang tính minh họa, do đây là vùng kinh tế lớn nhất cả nước và nhiều hoạt động kinh tế chưa được tách bạch để xác định có thuộc kinh tế biển hay không. Thực tế cho thấy, đóng góp lớn nhất của kinh tế biển vùng Đông Nam Bộ vào GDP của cả nước là dựa vào ngành khai thác dầu, khí trên biển; vì vậy, giá dầu thô trên thị trường giảm mạnh đã tương ứng dẫn tới sự giảm sút đóng góp của kinh tế biển vùng này vào GDP trong hơn 10 năm qua. Trong 4 vùng biển và ven biển của Việt Nam, vùng biển và ven biển Tây Nam Bộ (Tiền Giang - Kiên Giang) có mức đóng góp GDP thấp nhất, đến hết 2016 mới đạt khoảng 6,4%. Có nhiều lý do giải thích cho thực trạng này. Nhưng vấn đề căn bản nhất được nêu ra là việc kinh tế biển kém phát triển do những hạn chế về hạ tầng trên bộ, đòi hỏi phải đầu tư nhiều hơn nữa cho tuyến hành lang kinh tế biển phía Tây (khu vực Rạch Giá - Hà Tiên của tỉnh Kiên Giang) và tuyến hành lang kinh tế ven biển phía Đông (từ Gành Hào - Bạc Liêu đến Năm Căn - Cà Mau). Các thông tin chính thức về việc xây dựng đảo Phú Quốc (Kiên Giang) trở thành trung tâm kinh tế lớn của vùng biển và ven biển Tây Nam Bộ (với một loạt các dự án đầu tư hạ tầng về sân bay, cảng biển du lịch quốc tế, v.v.) được kỳ vọng sẽ tạo ra bước phát triển đột phá của kinh tế biển khu vực này.
Thực trạng phát triển kinh tế biển Việt Nam hiện nay cho phép nhận diện một số kết quả quan trọng đã đạt được như sau.
Thứ nhất, kinh tế ven biển và thuần biển đã có đóng góp quan trọng vào tổng GDP của cả nước, và cùng với đó, thu nhập bình quân của người dân ven biển đang tăng nhanh. Số liệu thống kê cho biết, trong 10 năm gần đây, đóng góp của 28 tỉnh, thành phố ven biển vào GDP cả nước luôn đạt trên 60%, trong đó có sự tham gia của các khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển. Ngoài ra, đóng góp của kinh tế thuần biển cũng đạt khoảng 10% GDP cả nước. Đặc biệt, du lịch biển và kinh tế đảo đã thu hút được nhiều nhà đầu tư lớn cả trong nước và nước ngoài, góp phần nâng cao một bước chất lượng hạ tầng kinh tế biển và tăng doanh thu từ các hoạt động này. Việc phát triển tốt kinh tế hải đảo còn có đóng góp quan trọng cho đảm bảo quốc phòng, an ninh và bảo vệ chủ quyền quốc gia.
Thứ hai, các tỉnh, thành phố ven biển đã có tốc độ tăng trưởng tương đối nhanh và hình thành các hoạt động kinh tế biển gắn với thu hút mạnh đầu tư và du lịch. Số liệu thống kê cho thấy, tổng vốn đầu tư vào 28 tỉnh, thành phố ven biển luôn đạt khoảng 50% tổng vốn đầu tư toàn xã hội trong suốt giai đoạn 2007 - 2017. Cùng với đó, lượng khách du lịch vào Việt Nam tăng rất nhanh qua các năm và một bộ phận lớn khách quốc tế đến Việt Nam đều gắn với các hoạt động du lịch biển10.
Thứ ba, đã hình thành và phát triển được nhiều khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển để tạo động lực mạnh hơn nữa cho phát triển kinh tế biển. Số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết đến hết năm 2017, cả nước đã có 17 khu kinh tế ven biển với tổng diện tích 845 nghìn hécta. Ngoài ra cả nước còn có 58 khu công nghiệp tập trung ven biển với tổng diện tích đất công nghiệp 13,6 nghìn hécta, chiếm 36,5% diện tích đất công nghiệp11. Kinh tế biển gắn với phát triển các ngành công nghiệp đã góp phần quan trọng đảm bảo tính bền vững và đem lại giá trị đóng góp thực cho nền kinh tế.
5. Kết luận
Biển và yêu cầu phát triển bền vững đang là chủ đề nhận được sự quan tâm sâu rộng của rất nhiều quốc gia trên thế giới. Hệ sinh thái biển khỏe mạnh, vùng bờ biển được bảo vệ tốt, sử dụng hợp lý luôn đóng vai trò quan trọng giúp tăng trưởng kinh tế bền vững, xóa nghèo đói, tạo việc làm cho người dân ven biển. Ở cấp độ toàn cầu, bảo vệ biển còn là một cam kết quan trọng của tất cả các quốc gia trong nỗ lực chống biến đổi khí hậu, hạn chế thiên tai và giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Trong khi biển có thể tiếp tục đóng góp to lớn cho sự phát triển, đem lại sự giàu có cho các quốc gia, thì hoạt động của con người vẫn đang gây ra những tổn hại nghiêm trọng tới biển và các hệ thống biển. Việc khai thác tài nguyên biển không hợp lý (nhất là đánh bắt cá quá mức, xả thải ra biển, gây ô nhiễm biển bằng chất thải nhựa khó phân hủy, năng lực quản lý biển yếu kém, v.v.) đang là những thách thức to lớn đối với việc duy trì sự gắn kết giữa biển và vấn đề phát triển bền vững trên thế giới.
Việt Nam là một quốc gia biển, có rất nhiều lợi thế từ biển. Động lực phát triển nhanh và bền vững đất nước trong tương lai có một phần hết sức quan trọng là từ biển. Đảng và Nhà nước Việt Nam đã sớm nhận thức được điều này và đưa ra nhiều chủ trương, chính sách về phát triển kinh tế, xã
hội dựa vào biển và đảm bảo quốc phòng, an ninh trên biển. Dù vậy, trong bối cảnh mới khi đòi hỏi về phát triển bền vững biển ngày càng tăng lên ở cả cấp độ quốc gia và toàn cầu, thì Việt Nam vẫn tiếp tục phải nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy, thay đổi cách làm để có tiếp cận tổng thể, toàn diện hơn tới biển và khai thác, sử dụng bền vững các nguồn lực từ biển. Nói cách khác, để phát triển bền vững, phát triển Việt Nam cần phải giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển gần hơn và phát triển xa hơn trong tiếp cận tới biển. Để phát triển gần hơn, phải quản lý bờ biển, bố trí nguồn lực ven biển, tạo nền tảng vững chắc cho phát triển, vì mọi hoạt động của chiến lược biển, xét đến cùng, đều xuất phát từ bờ biển. Để phát triển xa hơn, phải có tầm nhìn dài hạn, nâng cao năng lực mọi mặt để có thể vươn ra xa hơn nữa ra ngoài đại dương, khai thác những nguồn lực to lớn hơn phục vụ phát triển đất nước, mà trước hết là phục vụ phát triển bền vững kinh tế biển.
Chú thích
2 UN Conference on Environment and Development (Earth Summit), Rio de Janeiro, 1992.
3 Rio Earth Summit 2012 (Rio+20).
4 Văn bản của Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất (Rio+20) năm 2012 có tên gọi: “The future we want” (Tương lai mà chúng ta mong muốn).
5GlobalOcean Observing System (GOOS) - Hệ thống được xác lập kể từ sau Hội nghị Rio+20.
6 Tham khảo tài liệu của UNCTAD: Oceans Economy and Fisheries, UNCTAD 2018, https://unctad.org/en/Pages/DITC/Trade-and-Environment/Oceans-Economy.aspx.
7 Khái niệm được Ủy ban Châu Âu (EC) đưa ra trong báo cáo: Blue Growth Study - Scenarios and drivers for Sustainable Growth from the Oceans, Seas and Coasts, 15/8/2012, https://ec.europa.eu.
8 UN Ocean Conference, New York, 5 - 9/6/2017.
9 Tổng hợp số liệu thống kê 2010 - 2016.
10 Số liệu của Tổng cục Du lịch cho biết khách quốc tế đến Việt Nam tăng trung bình 12%/năm trong suốt 10 năm qua. Trong 9 tháng đầu năm 2018, khách du lịch quốc tế đến Việt Nam đã đạt 11,6 triệu lượt người, tăng 22,9% so với cùng kỳ năm 2017.
11 Tham khảo Báo cáo về tình hình kinh tế, xã hội của Bộ Kế hoạch và Đầu tư tháng 9/2018 và một số tài liệu liên quan của các tỉnh, thành phố ven biển.
Tài liệu tham khảo
[1] Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Nghị định 67/2014/NĐ-CP ngày 7/7/2014 của Chính phủ về một số chính sách phát triển thủy sản, Hà Nội.
[2] European Commission, Blue Growth Study - Scenarios and drivers for Sustainable Growth from the Oceans, Seas and Coasts, EC, 15/8/2012.
[3] FAO, The State of World Fisheries and Aquaculture 2018, FAO report, 2018.
[4] Oceans, Fisheries and Coastal Economies, World Bank Report, September 25, 2018.
[5] OECD, The Ocean Economy in 2030, OECD Publishing, Paris, 2016.
[6] UNESCO, Reform Regional Ocean Management Organisations, 2018.
[7] UN, The future we want- Outcome documentofthe United Nations ConferenceonSustainable Development, Rio de Janeiro, Brazil, 20-22 June, 2012.
[8] UNCTAD, Oceans Economy and Fisheries, UNCTAD, 2018.
[9] Website: SciDev.net, 2018.
[10] Open Working Group proposal for Sustainable Development Goals, Goal 14, https://sustainabledevelopment.un.org/sdgsproposal.html.