GS Hồ Ngọc Đại: Áp đặt tư tưởng của người lớn cho học sinh là lỗi thời
(Văn hóa) - Không tức giận khi bị chê bai, GS Đại khẳng định muốn tạo ra một nền giáo dục chưa hề có trong lịch sử, lấy cá nhân làm cơ bản.
(Văn hóa) - Không tức giận khi bị chê bai, GS Đại khẳng định muốn tạo ra một nền giáo dục chưa hề có trong lịch sử, lấy cá nhân làm cơ bản.
(Văn hóa) - Sách Tiếng Việt Công nghệ giáo dục dạy học sinh đánh vần theo tiếng, còn sách đại trà theo con chữ.
(Văn hóa) - Bài viết phân tích khái niệm tư tưởng làng xã, mối liên hệ giữa tư tưởng làng xã với văn hóa làng xã, tư tưởng làng xã với tư tưởng quan phương, tính chất và nội dung của tư tưởng làng xã.... Theo tác giả, tư tưởng làng xã có ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống của cư dân nông nghiệp vùng đồng bằng Bắc Bộ, có những đặc thù riêng. Tư tưởng làng xã đã và đang tồn tại lâu dài trong cư dân nông nghiệp, có ảnh hưởng tích cực và tiêu cực đối với sự phát triển của nông thôn Việt Nam.
(Văn hóa) - Với lịch sử 1900 năm truyền bá ở Việt Nam, trong đó có hai giai đoạn chiếm địa vị độc tôn là Hậu Lê (1428 - 1527) và Nguyễn sơ (1802 - 1883), Nho giáo đã tác động mạnh mẽ đến văn hóa Việt Nam. Nho giáo tác động chủ yếu đến các giai cấp, tầng lớp trên trong xã hội, nhưng không ăn sâu bén rễ vào các giai cấp, tầng lớp dưới. Đối với văn hóa tinh thần, Nho giáo góp phần làm hình thành dòng văn hóa quan phương chính thống, bên cạnh dòng văn hóa dân gian gắn với ý thức tộc người, làm nên cốt lõi của văn hóa tộc người. Nho giáo làm cho văn hóa tinh thần của Việt Nam thời trung đại bị Hán hóa một phần đáng kể, đồng thời kìm hãm, gây hại cho nền văn hóa truyền thống của Việt Nam, cả trong lĩnh vực văn hóa tinh thần lẫn văn hóa vật chất. Nho giáo càng đạt tới tột đỉnh quyền uy thì đất nước Việt Nam càng suy yếu, văn hóa Việt Nam càng suy thoái. Và cuối cùng, trước nạn vong quốc cuối thế kỷ XIX, Nho giáo đã bất lực và tàn lụi.
(Văn hóa) - Hát đúm là sinh hoạt văn hóa gắn bó mật thiết với đời sống cộng đồng của các cư dân làm nông nghiệp. Ở người Thổ hát đúm tuy có những hình thức khác nhau (như hát em ôi, hát trống chiêng, hát ghẹo,...) nhưng vẫn chung bản chất là một hình thức giao duyên nam nữ. Bài viết giới thiệu hát đúm của người Thổ ở Việt Nam.
(Văn hóa) - Vùng đồng bằng Bắc Bộ là nơi diễn ra các hoạt động sinh sống và sản xuất của người dân trồng lúa nước, đồng thời cũng là không gian sinh hoạt, gìn giữ và phát huy các giá trị văn hóa. Văn hóa làng vùng đồng bằng Bắc Bộ được hình thành và phát triển trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc với nhiều đặc trưng, trong đó nổi bật là tính cộng đồng, tính tự trị, tính dung hợp trong tư duy. Văn hóa làng vùng đồng bằng Bắc Bộ có vai trò to lớn đối với việc hun đúc nên tâm hồn Việt, các giá trị đạo đức, nhân văn. Tuy nhiên, văn hóa làng vùng đồng bằng Bắc Bộ cũng có những hạn chế, không phù hợp với yêu cầu của việc xây dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay.
(Văn hóa) - Bài viết đề cập đến quan điểm và hình thức thờ cúng tổ tiên của người Công giáo Việt Nam qua tang ma, giỗ chạp, đám cưới, ngày Tết, ngày lễ các đẳng; sự tương đồng và khác biệt giữa người Công giáo và người không Công giáo trong vấn đề thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam; những tương đồng giữa Công giáo Việt Nam với Công giáo Trung Quốc, Philippine, Nhật Bản. Qua đó cho thấy quá trình tiếp biến và hội nhập giữa văn hóa Công giáo với văn hóa bản địa ở Việt Nam.
(Văn hóa) - Vận dụng cách tiếp cận liên ngành, đối chiếu, sàng lọc, sắp xếp các thành tựu nghiên cứu của một số ngành khoa học (khảo cổ học, sử học, ngôn ngữ học, văn hóa học, địa chất học, sinh học...), bài viết phác họa lại bốn chặng đường tiếp biến văn hóa từ thời tiền Việt - Mường đến thời cận đại ở Việt Nam. Từ cội nguồn đầu tiên là văn hóa Môn - Khmer chuyên về nương rẫy và săn câu lượm hái, cư dân tiền Việt - Mường đã tiếp biến văn hóa của người Tày cổ để phát triển nền nông nghiệp lúa nước trong thung lũng và đồng bằng châu thổ. Tiếp đó, họ tiếp biến văn hóa của người Hán, người Thái và chuyển biến thành hai tộc người cư trú liền kề, chia nhau chiếm lĩnh phần lớn địa bàn Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Khi người Việt tái lập nhà nước, mở rộng địa bàn vào Nam, văn hóa Việt đã tiếp biến với văn hóa Chăm, Hoa, Khmer. Khi tiếp xúc với văn hóa Pháp, văn hóa Việt lại biến đổi mạnh mẽ theo chiều hướng Âu hóa và hội nhập với phương Tây. Và văn hóa Việt Kinh biến đổi thì văn hóa Việt Nam biến đổi, vì người Việt Kinh là tộc người đa số, là chủ thể chính của văn hóa Việt Nam. Bốn chặng đường biến đổi lớn trong lịch sử đã làm cho văn hóa Việt và văn hóa Việt Nam tách khỏi cội nguồn của nó rất xa. Tuy nhiên, chính nhờ đó mà sức mạnh tinh thần và vật chất của văn hóa Việt Nam đã được đổi mới và được vun bồi những yếu tố cần thiết để cho nó có thể thích ứng với những bối cảnh và thách thức mới.
(Văn hóa) - Sinh thời, nhà thơ Huy Cận đã từng nhận mình là “một chiếc linh hồn nhỏ/ mang mang thiên cổ sầu”. Thật trùng hợp khi bài hát Giọt mưa thu của cố nhạc sĩ Đặng Thế Phong ban đầu có tên là Sầu vạn cổ. Vì cái tên Sầu vạn cổ ấy nghe nó buồn bã và thê thảm quá nên bạn bè đã khuyên nhạc sĩ đổi lại tên.
(Văn hóa) - Dù kê là một trong những loại hình nghệ thuật sân khấu đặc sắc, có tính đặc trưng của người Khơme Nam Bộ, là một di sản văn hóa phi vật thể có giá trị của dân tộc. Mới đây, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã xếp Dù kê vào một trong 12 di sản văn hóa phi vật thể dự kiến trình lên UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại trong giai đoạn 2012 - 2016. Tuy nhiên, cũng như nhiều loại hình nghệ thuật sân khấu truyền thống khác, nghệ thuật Dù kê cũng đang gặp phải những khó khăn nhất định trong quá trình phát triển. Vì vậy, việc tìm kiếm những giải pháp có hiệu quả để bảo tồn và phát triển nghệ thuật Dù kê là rất cần thiết để xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở nước ta hiện nay.
Tổng biên tập: PGS.TS. Nguyễn Duy Lợi
Giấy phép hoạt động báo chí: số 114/GP-BTTTT
do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 22 tháng 4 năm 2013.
Địa chỉ: 26 Lý Thường Kiệt, Hoàn Kiếm, Hà Nội, Việt Nam
Điện thoại: (84) 439365703 - Fax: (84) 439365707